Đế sư – Chương 29

 

29

ĐẾ SƯ

Chương 29: Gió nổi

Edit: Mimi

Beta: Ame

*****

 

Chỉ trong một đêm, gió mưa vần vũ khắp nội cung.

 

Hoàng hậu nương nương bị đoạt phượng ấn, Tiền nữ quan hầu hạ bên người bị phạt trượng đến chết, cung Khôn Ninh đóng chặt cửa còn bị người của Tư Lễ giám tới giám sát trông coi. Cùng lúc đó, trung quan xuất cung tới phủ của Thọ Ninh hầu truyền chỉ, nếu không được triệu kiến tuyệt đối không thể vào cung.

 

“Vốn tưởng hầu hạ Hoàng hậu nương nương là ổn nhất, nào ngờ…”

Nửa câu còn lại, không một ai dám nói ra ngoài miệng, thế nhưng đã có thể thấy được rõ ràng rằng tâm tư của người ở cung Khôn Ninh vô cùng bất ổn, kể cả những nữ quan và trung quan có phẩm cấp cũng đều hoảng loạn vạn phần, không biết con đường phía trước của mình sẽ ra sao.

 

Tin tức truyền tới điện Văn Hoa, nhưng Thái tử không còn tìm cơ hội cầu xin Thiên tử như lúc trước. Sau khi vấn an, nó liền đi thẳng một đường về phía Thiên điện, chờ Tu soạn viện Hàn Lâm -Tạ Phi tới dạy học, lúc ở trước mặt Thiên tử, một câu thừa thãi cũng chưa từng thốt ra.

 

Lưu Cẩn quỳ trong điện Văn Hoa gần bốn canh giờ, hai đầu gối suýt nữa thì bị phế bỏ, khi được đưa tới trước mặt Chu Hậu Chiếu, liền than thở khóc lóc một hồi.

 

“Nô tài tuyệt đối không có tâm tư khác, chỉ một lòng một dạ hướng về Điện hạ… Hoàng hậu nương nương triệu kiến nô tài, có cho thêm một vạn lá gan, nô tài cũng không dám không đi… Điện hạ thứ tội, nô tài không dám nữa!”

 

Lưu Cẩn vừa khóc lóc vừa dập đầu, trên trán lưu đầy vết bầm xanh tím, nhanh chóng sưng lên.

 

Hắn đáng thương quỳ rạp trên mặt đất, còn không quên cắn răng thề, chờ một ngày trèo lên được chỗ cao, hắn chắc chắn sẽ đem những kẻ đã hãm hại hắn hôm nay chém chết từng tên từng tên một!

 

Cuối cùng, Lưu Cẩn khóc lóc cũng khiến Chu Hậu Chiếu mềm lòng, tính mệnh có thể bảo toàn, cũng không bị đuổi khỏi điện Văn Hoa, chẳng qua không được sủng ái như ngày xưa nữa.

 

Một đạo thánh chỉ của Thiên tử đã khiến cung Khôn Ninh đìu hiu vắng lặng, mà cung Thanh Ninh thì bị đưa lên làm nơi đầu sóng ngọn gió.

 

Cung nhân đã trải qua gió tanh mưa máu những năm Thành Hoá đều đang cân nhắc, không biết vị Thái phi này sẽ có những động tác gì.

 

Nhớ năm xưa, Vạn Phi được sủng ái biết bao nhiêu, uy phong lẫm liệt đến thế nào, ấy vậy mà vẫn bị Ngô Thái phi đánh trượng.

 

Tuy cũng là Vạn Phi tự chuốc, cố tình khiêu khích Hoàng hậu ý đồ khơi dậy lửa giận trong lòng Thiên tử, thế nhưng nhưng chỉ sợ chính ả cũng chưa từng nghĩ tới, vị nương nương vẫn luôn bất động thanh sắc, thoạt nhìn có vẻ dễ bắt nạt kia, vậy mà thật sự dám gây chiến, hạ lệnh đánh trượng mình!

 

Cung nhân và trung quan lớn tuổi đến nay vẫn còn nhớ rõ một màn phạt đánh lúc bấy giờ.

 

Vạn phi cao ngạo ngông cuồng không ai sánh được, kết cục bị đánh bằng roi cũng sẽ nước mắt đầm đìa, thảm thiết kêu la, càng về sau càng chỉ còn một chút hơi tà, uy phong cái gì gì đó cũng hoàn toàn biến mất.

 

Sau sự kiện đó, người trong cung mới biết, Anh Tông Hoàng đế bổ nhiệm Ngô thị làm chính cung Hoàng hậu không phải chỉ vì cữu cữu của vị này có công cứu giá thôi đâu.

 

Đáng tiếc, Thành Hoá đế mờ mắt vì sắc đẹp của Vạn phi, si tâm mãi không thay đổi, dù biết Hoàng hậu không sai, thế nhưng vẫn hoàn toàn không màng tới di mệnh của Tiên đế, tước đoạt phượng ấn, ném ra một đạo thánh chỉ, lập tức đẩy người nọ vào lãnh cung.

 

Tuy rằng Vạn phi đã báo được thù, đã trút được giận, nhưng trước sau vẫn không cách nào trèo lên ngôi vị hoàng hậu như ý nguyện, đến lúc chết vẫn chỉ là một quý phi.

 

Ả quá coi thường năng lực của triều thần cùng sự cố chấp của người đọc sách.

 

Văn thần đồng loạt vùng lên, Hoàng đế cũng phải buông tay thỏa hiệp.

 

Phạt trượng?

 

Tùy ý!

 

Nếu bị đánh chết tên tuổi liền được lưu trong sách sử, còn một khi đánh không chết, bọn họ sẽ lại dâng tấu lên trên!

 

Ngô Thái phi có ân dưỡng dục đối với đương kim Thiên tử, ngày đó, khi Thiên tử được Tiên đế sắc phong là Thái tử, bà cũng được đưa ra khỏi lãnh cung, phong làm Thục phi. Về sau, Thiên tử đăng cơ, bà liền chuyển tới cung Thanh Ninh, hưởng thụ tôn vinh của Thái hậu.

 

Hoằng Trị đế vốn muốn mời Ngô Thái phi vào ở cung Nhân Thọ, song lại bị người kiên quyết cự tuyệt, cuối cùng đành phải buông tay.

 

“Bệ hạ nhân từ, nhưng cũng không thể trái với quy củ tổ tông.”

 

Trải qua biết bao nhiêu khói bụi mịt mù do Vạn phi mang tới, lại thêm sự bạc tình của Thiên tử cùng với những cô quạnh tịch liêu ở chốn lãnh cung, Ngô Thái phi đã nguội lạnh trong lòng, ngay cả cung Thanh Ninh cũng không muốn ở, chỉ mong tìm được một nơi an tĩnh để đi hết quãng đời còn lại mà thôi.

 

Chẳng qua Hoằng Trị đế cùng với một mảnh hiếu tâm quá cương quyết, cho nên bà đành phải tiếp nhận thánh ân, yên ổn ở lại cung Thanh Ninh.

 

Từ năm đầu tiên cho tới năm thứ mười tám của thời Hoằng Trị, trừ những đại lễ tất yếu ra thì Ngô Thái phi hiếm khi nào lộ diện.

 

Ngày thường bà không cài trâm hoa, không mặc đại sam, chỉ làm bạn với kinh Phật và đàn hương. Thậm chí rất nhiều trung quan cùng cung nhân tiến cung trong thời Hoằng Trị còn không biết trong cung Thanh Ninh có một vị Thái phi.

 

Lánh đời đã mười mấy năm, nay vì một đạo dụ lệnh của Thiên tử, Ngô Thái phi rốt cuộc lại xuất hiện trong tầm mắt của mọi người, vung tay chấp chưởng nội cung. Tư lễ giám và Nữ quan ti(*) đều đang chờ đợi, muốn xem thử vị phế hậu của Thành Hoá đế sẽ có thể tạo nên sấm rền gió cuốn như thế nào.

(*) Nữ quan ti: cơ quan quản lý nữ quan trong cung

 

Cuối cùng, hình ảnh khiến cho mọi người mở rộng tầm mắt chính là Ngô Thái phi mặc một thân đạo bào bước ra khỏi cung Thanh Ninh, trước đi tới cung Càn Thanh bái kiến Thiên tử, sau liền chuyển hưởng về cung Khôn Ninh.

 

Thiên tử và Ngô Thái phi đã nói những thứ gì, ngoại trừ vài người trong đám Ninh Cẩn ra thì không một ai biết được, cũng chẳng có mấy người dám cả gan nghe.

 

Hoàng hậu cự tuyệt không gặp Ngô Thái phi, để người đứng đợi nửa canh giờ ở ngoài của cung mới sai cung nhân ra nói một câu cho có lệ: “Hoàng hậu nương nương có bệnh trong người, không tiện gặp mặt Thái phi.”

 

Người mà Thiên tử còn phải tôn trọng, nhưng Hoàng hậu chỉ một câu đã trực tiếp đuổi về.

 

Việc này rơi vào tai Tư lễ giám, Vương Nhạc và Đới Nghĩa đồng thời hít mạnh một hơi.

 

Hoàng hậu đang làm cái gì vậy?

 

Ngang nhiên thể hiện bất mãn với Thiên tử hay sao?

 

Nếu là trước kia, chưa chắc Thiên tử đã lưu tâm, cùng lắm chỉ cười một cái rồi thôi. Nhưng bây giờ là lúc nào rồi, việc bế cung cũng không thể khiến cho Hoàng hậu nâng cao tự giác, lại còn làmquá lên như thế này là cớ làm sao?

 

Có điều, bản thân là người trong cuộc, Ngô Thái phi lại cực kỳ bình thản, không nói nửa lời liền trở về cung Thanh Ninh.

 

Đợi khi cửa cung đóng lại, quay vào tĩnh thất, nữ quan hầu hạ bà gần bốn mươi năm cuối cùng cũng không nhịn được mà mở miệng: “Nương nương, Hoàng hậu đây là có ý gì? Năm xưa cũng nào có phải cái dạng này đâu.”

 

“Đi theo ta ăn chay niệm Phật, quanh năm suốt tháng không ra khỏi cửa cung, ngươi cũng đã ngu đi rồi.” Ngô Thái phi lắc đầu, “Nhớ lại Vạn thị năm đó, lại so với Hoàng hậu hiện giờ có thấy giống nhau không?”

 

“Nhưng Hoàng hậu nương nương và Vạn thị…” Làm sao có thể cùng một dạng người cho được?

 

“Ăn cùng quả đắng giống ả, chịu một loại tội với ả, chưa chắc đã không có biến chuyển tương đồng.”

 

Ngô Thái phi cắt lời cung nhân, ra hiệu cho đối phương cùng ngồi xuống.

 

Làm bạn vài chục năm, cả hai đã sớm như thân nhân, ở ngoài còn phải làm bộ làm tịch, song nếu đã trở lại cung Thanh Ninh sẽ không câu nệ quá nhiều quy củ.

 

“Nương nương, sao Hoàng hậu lại thành như vậy?”

 

“Không thành như vậy thì còn có thể thành như thế nào?”

 

“Nương nương đừng trách nô tỳ lắm miệng,” nữ quan do dự một chút lại nói, “Hôm nay nhìn thấy bệ hạ, quả thực quá mức gầy gò, suýt nữa nô tì còn nhận không ra. Thái tử điện hạ chưa trưởng thành, Hoàng hậu nương nương đã ra thế này. Nô tỳ cả gan nói lời đại bất kính, nếu “ngày đó” thực sự đến, còn ai có thể quản thúc Hoàng hậu đây? Rồi nội cung sẽ ra sao? Nô tỳ càng nghĩ, trong lòng lại càng là bồn chồn lo lắng không yên.”

 

Không ra khỏi cung Thanh Ninh, nhưng nữ quan cũng nghe nói tới chuyện hai vị quốc cữu tham lam vô độ, ý thế làm càn, mượn rượu cả gan đội mũ Hoàng đế, ngự trướng cũng dám rình, vậy thì còn có cái gì không dám làm nữa?

 

Sau khi Hoàng hậu biết chuyện, chẳng những không trách cứ huynh đệ của mình, còn quay ra khóc lóc cầu xin Hoàng đế đem trung quan Hạ Đỉnh ngay thẳng thật thà giam vào ngục tối. Hành động này căn bản không phải chỉ dùng một từ “hồ đồ” là có thể lấp liếm được.

 

Hoàng hậu không biết phải trái, một lòng dung túng ngoại thích như vậy, khó trách bệ hạ phải lo lắng.

 

“Đạo gia(1) có câu, người giàu luôn thấy không đủ – kẻ nghèo lại biết hài lòng; nhân tài lao lực mà chuốc oán – kẻ ngốc lại được hưởng thái bình(2).” Ngô Thái phi thở dài một tiếng, tóc mai đã điểm tuyết trắng, song hai mắt lại trong sáng cực kỳ, “Phồn hoa che mắt, quyền thế hoặc người. Một khi lòng đã u mê thì có muốn rút chân ra cũng không cách nào rút được.”

(1) Đạo gia: hai đại biểu chính là Lão Tử và Trang Tử

(2) Câu này có nghĩa: người giàu mà luôn tham làm thấy không đủ sao có thể sánh bằng người nghèo mà thấy thỏa mãn trong lòng, người tài lao lực ngày đêm để rồi chuốc lấy người đời oán giận sao có thể sánh bằng kẻ ngốc mà sống an nhàn thảnh thơi.

 

“Nương nương, người đã sớm biết Hoàng hậu nương nương sẽ như vậy?”

 

“Trên đời này có một loại người, có thể cùng chung hoạn nạn, nhưng lại không thể cùng hưởng giàu sang.”

 

Ngô Thái phi khẽ lắc đầu, nói: “Ý trời đã định, ta cũng từng khuyên nhủ Hoàng hậu, nhân sinh chẳng qua là mấy cái mười năm, nếu đã khổ tẫn cam lai thì nên giữ gìn hạnh phúc. Đáng tiếc ta đây người già lời nhẹ, không có tác dụng chút nào.”

 

Nếu hoàng hậu nghe lọt vào tai, ắt sẽ không náo loạn tới mức này.

 

“Nương nương, bệ hạ mời người chấp chưởng nội cung, người cũng không thể nói như vậy được.”

 

“Đồ ngốc.” Ngô Thái phi bỗng nhiên nở nụ cười, “Ta còn có thể sống được mấy năm? Vốn định khuyên nhủ Hoàng hậu đừng nên làm mình làm mẩy với Thiên tử nữa. Nhưng hiện giờ xem ra ta nghĩ quá đơn giản rồi.”

 

Nữ quan không nói gì thêm, chỉ là càng lúc càng lo lắng.

 

“Mấy năm tay cầm kinh thư, nhưng cuối cùng vẫn không cách nào ngộ đạo. Từ đó có thể thấy được ta là tục thai phàm thể, tu cũng không thành chân nhân. Chỉ mong sớm đi gặp Tiên đế một chút, nhưng mà như thế lại phải nhìn mặt Vạn thị, cũng thực phát chán trong lòng.”

 

Ngày nay tôn vinh bà như Thái hậu thì sao chứ?

 

Xét cho cùng, vẫn là một phế hậu mà thôi. Đừng nói mai này được hợp táng cùng Tiên đế, ngay cả hoàng lăng cũng khó được đưa vào.

 

“Nương nương…”

 

“Cuốn kinh Phật này là do Tấn vương đưa tới.” Ngô Thái phi lấy ra một quyển kinh thư, bỏ vào hộp gỗ, đưa cho nữ quan, “Ngươi cầm tới Tư lễ giám, giao cho Vương Nhạc, hắn sẽ biết nên làm như thế nào.”

 

“Nô tỳ tuân lệnh.”

 

Nữ quan lui ra, Ngô Thái phi thắp lại đàn hương, bắt đầu niệm đọc kinh thư. Từng câu từng chữ chảy qua trong óc, thẩm thấu xuống tận đáy lòng, thế nhưng tâm trí không cách nào tĩnh lặng được như ngày trước.

 

Đêm không trăng, gió lại nổi lên.

 

Ngày Tân Sửu, tháng tư, Năm Hoằng Trị thứ mười tám Ân lịch.

 

Tiếng sấm rền vang ở phía chân trời, cuồng phong đột ngột nổi lên, kinh thành bỗng chốc bị bao phủ bởi một màn mưa to gió lớn.

 

Người qua kẻ lại trên đường nhao nhao đi tìm chỗ trú, ngựa lừa hí vang, chó mèo chui lủi, hệt như cảnh tượng trước khi thảm họa động đất diễn ra.

 

Trong phòng trực ở viện Hàn Lâm, Dương Toản bị tiếng sấm làm cho giật mình, ngón tay loáng thoáng run lên, một giọt mực bất ngờ nhỏ xuống, lập tức thẩm vào mặt giấy. Bởi thế cho nên văn lịch vừa sao chép được hơn phân nửa liền trở thành giấy vụn rồi.

 

Tia chớp xẹt ngang bầu trời, tiếng gió thét gào ào ào thổi tới, những hạt mưa nặng trĩu tầm tã rơi.

 

Thư lại đi ngang phòng trực, vì không kịp né tránh, thoáng chốc bị mưa tạt vào nhịn không được mà cảm thấy lạnh thấu tim gan.

 

Những người may mắn, vừa vặn đi tới cửa phòng trực của Dương Toản và Cố Triết Thần liền mở miệng làm phiền một tiếng, tốt xấu gì cũng có thể vào tránh gió tránh mưa.

 

Còn người kém may hơn thì đứng trước cửa phòng Trương học sĩ và Lưu học sĩ, chỉ có thể nép mình dưới mái hiên hoặc là chạy nhanh mấy bước, tìm tới phòng của thị đọc thị giảng nào đó dễ nói chuyện hơn mà lánh nạn. Cũng không phải là hai vị học sĩ ý chí sắt đá, mà thật sự là cao thấp có nhiều cách biệt, cho dù cửa phòng chủ động mở ra, thư lại cũng không dám bước vào bên trong nửa bước.

 

Tiếng sấm vang lên không ngớt, những tia chớp thi nhau cắt nát tầng không, bầu trời như bị khoét thành lỗ hổng.

 

Mây đen dày đặc, mặc dù đang là ban ngày mà tối tăm y hệt ban đêm.

 

Nến được thắp lên, ánh lửa chiếu tới bức tường, mơ hồ xuất hiện những bóng mờ vặn vẹo.

 

Dương Toản không còn tâm trí sao chép văn thư, dứt khoát buông bút, xoa xoa cổ tay một chút. Đúng lúc ấy, bên tai hắn lại truyền đến tiếng nói của một vài thư lại.

 

“Về lý mà nói, tháng tư hẳn là không có mưa dông như vậy mới đúng chứ.”

 

“Trận mưa này thật sự vô cùng kỳ lạ.”

 

“Mấy năm nay quá nhiều thiên tai nhân họa xảy ra, hoàng lịch đã sớm không còn dùng được nữa rồi.”

 

“Năm ngoái Kim Lăng có địa chấn, Hà Nam bị nạn châu chấu hoành hành, giữa năm nay còn trải qua một lần lũ lụt, quả nhiên là vận khí không thông thuận.”

 

“Đúng thế.”

 

Thanh âm của thư lại nhỏ dần, Dương Toản một lần nữa nhấc tay mài mực, cân nhắc xem liệu chuyện này có liên quan đến thời kỳ tiểu băng hà hay không.

 

Mưa như trút nước khoảng chừng gần một canh giờ, hàng ngàn dòng nước chảy tràn từ những mái nhà cong cong, tạo thành một tấm mành mưa rất đẹp.

 

Giữa giờ Thân, mưa tạnh, thư lại vội càng cảm tạ Dương Toản sau đó rời khỏi căn phòng.

 

Dương Toản dừng bút, thu hồi xấp văn thư đã sao chép xong thì khẽ nhíu mày. Hôm nay sợ là sẽ không làm hết việc, bởi vì khoảng thời gian kế tiếp phải thay phiên tiếp nhận công việc ở Hoằng Văn quán, cho nên ngày mai e rằng sẽ bận rộn lắm đây.

 

Liếc mắt nhìn đồng hồ nước một cái, Dương Toản đi ra khỏi phòng trực, vừa vặn gặp gỡ Tạ Phi.

 

“Dương hiền đệ.”

 

“Tạ huynh.”

 

Tạ Phi vẻ mặt tươi cười, nhiệt tình đến mức có hơi kỳ quái.

 

Sau khi hàn huyên một vài câu, phát hiện Dương Toản lộ ra biểu tình nghi hoặc, cuối cùng hắn cũng nói rõ ý đồ của mình: “Nghe nói hiền đệ đã trình đơn lên Lại bộ, muốn được về quê thăm nhà, việc này có thể hoãn lại một thời gian không?”

 

“Vì sao?”

 

Khi nói chuyện, hai người đã ra khỏi viện Hàn Lâm, Tạ Phi hạ giọng: “Gia phụ đã xem qua luận văn về nông thương của Dương hiền đệ, bởi vì tán thưởng vô cùng cho nên đã mang tới Văn Uyên các, sau đó Lý Các lão cũng rất đồng tình.”

 

Dương Toản vẫn chưa hiểu, chuyện đó và việc hồi hương của hắn thì có liên quan gì đến nhau?

 

Tạ Phi không vòng vo nữa, lấy ra hai cái danh thiếp(*) vẫn cất ở trong tay áo.

(*) Danh thiếp: đại khái là thiếp mời có tên có tuổi của đại quan

 

“Đây là danh thiếp của gia phụ và lý Các lão, lúc nào hiền đệ rảnh thì ghé qua phủ chơi một chút đi.”

 

Cầm danh thiếp của Các lão, thực chẳng khác nào ôm hai cục gạch bằng vàng.

 

Người khác nằm mơ cũng chả được, thế mà Dương Toản một lần nắm được tới hai cái, đúng là chuyện tốt thành đôi.

 

“Đa tạ hiền huynh.”

 

Vào lúc này, chối từ thì có vẻ giả tạo quá, hào phóng tiếp nhận, chuẩn bị tốt danh thiếp của mình, chờ ngày thích hợp tới cửa chào hỏi mới là biện pháp ứng đối chính xác nhất.

 

“Dương hiền đệ khách khí rồi.”

 

Đưa danh thiếp xong, Tạ Phi coi như đã hoàn thành nhiệm vụ, sau khi cáo từ liền quay đầu bước đi.

 

Lúc này, binh mã ngũ thành và Cẩm Y vệ đã bắt đầu tuần tra khắp các ngõ ngách trong thành, gặp phải nước ngập hay nhà đổ sẽ giải quyết trước tiên.

 

Dương Toản một đường bước đi, gặp hai Thiên hộ, năm sáu Bách hộ, nhưng trong đó lại không có Cố Khanh.

 

Một chút thất vọng không hiểu vì đâu bỗng chốc dâng lên trong lòng, quả nhiên là mỹ nhân khó gặp, điềm tốt khó tìm.

 

Nhận chức đã hơn nửa tháng, song Dương Biên tu vẫn ở tại quán trọ Phúc Lai.

 

Nhà cửa quan nha giới thiệu nếu không phải là giá cả quá cao thì cũng là địa điểm quá xa. Dương Thổ báo lại với Dương Toản, hắn cũng chẳng có cách nào, chỉ đành tiếp tục ở lại quán trọ.

 

Có tiền Hoàng đế ban cho, dù nhà hơi đắt cũng có thể mua, nhưng hắn lo đến đám Ngôn quan Ngự sử trong triều, vì thế vẫn nên cẩn thận một chút thì tốt hơn.

 

Trở lại quán trọ, Dương Toản không thấy Dương Thổ, nhưng lại gặp gỡ ba người Lý Thuần, Trình Văn, Vương Trung.

 

“Dương hiền đệ.”

 

Vương Trung đã mua nhà ở trong thành, Trình Văn cùng Lý Thuần cũng đã nhận văn thư phê chuẩn của Lại bộ, được điều làm Huyện lệnh địa phương, vài ngày sẽ khởi hành đi nhậm chức.

 

“Chuyến này rời đi… liền thành trời Nam biển Bắc, nếu chưa mãn hạn làm quan thì khó có thể gặp nhau.”

 

Trình Văn quê quán Kế Châu, được điều tới phủ Bình Lương, làm Huyện lệnh huyện Long Đức, dưới quyền Bố chính sứ Hiệp Tây.

 

Lý Thuần nguyên quán Tuyên phủ, điều tới Thái Nguyên, làm Huyện lệnh huyện Lâm Huyền.

 

So sánh với Trình Văn, con đường của Lý Thuần khó đi hơn nhiều lắm.

 

Thái Nguyên là đất của Tấn vương, vừa phải đối mặt với quan trên ở Bố chánh sứ, lại không thể đắc tội quan viên trực thuộc Tấn vương phủ, cho dù khéo léo cách mấy cũng khó lòng bảo đảm mọi chuyện sẽ vẹn toàn.

 

Huống hồ, triều đình còn có một quy định bất thành văn, quan viên được điều tới đất Phiên vương, đồng thời phải phụ trách “giám thị” phiên vương nơi đó, chỉ cần có chút gió thổi cỏ lay, hay tình huống dị thường, đều phải sai khoái mã đưa tin về kinh thành.

 

Một chức quan nho nhỏ tép riu, lại gánh trên lưng quá nhiều trọng trách, làm không tốt sẽ đắc tội cả hai bên, kết cục chính là không được chết già. Người có năng lực thừa nhận tốt hơn một chút, cho dù không mất mạng thì cũng phải từ quan.

 

Làm quan thất phẩm, Lý Thuần không hề có lấy nửa điểm vui mừng, ngược lại thần tình khổ sở, nguyên nhân thì ba người có mặt ở đây đều hiểu được.

 

Vương Trung đề nghị, trước khi Lý Thuần và Trình Văn rời kinh, bốn người bọn họ sẽ tụ tập một đêm.

 

“Dương hiền đệ không thể uống rượu vậy thì cứ lấy trà thay rượu, đưa tiễn hai vị đồng bạn một phen, cũng coi như viết thành giai thoại.”

 

“Tiểu đệ đương nhiên phải tuân theo rồi.”

 

Định ngày xong xuôi, tiễn bước ba người Vương Trung, Dương Toản liền trở về phòng cất kỹ hai tấm danh thiếp, sau đó ngồi xuống day day ấn ấn thái dương.

 

Tính toán thời gian, văn thư của hắn hẳn là đã được Lại bộ phê duyệt nhiều ngày, hiện tại vừa muốn tới cửa hỏi thăm Các lão, vừa muốn đưa tiễn Lý Thuần Trình Văn, xem ra ngày về quê thăm nhà phải lui chậm lại.

 

Thế nhưng, Dương Biên tu nằm mơ cũng không ngờ được, kế hoạch của mình vậy mà đã có biến hóa nhanh chóng. Ngay ngày thứ hai hắn đến viện Hàn Lâm điểm danh, công văn phê chuẩn của Lại bộ còn chưa tới song Tự thừa của Đại lý tự đã xuất hiện rồi.

 

“Huyện nha huyện Trác Lộc dâng đơn kiện, mời Dương Biên tu theo bản quan tới Đại lý tự một phen.”

 

Đặng Chương mặt mày cau có, cũng không nói rõ là đơn kiện gì, chỉ một mực mời Dương Toản rời bước.

 

Dẫn người về Đại lý tự còn cần đích thân Tự thừa xuất mã?

 

Dương Biên tu còn chưa kịp hỏi rõ nguyên do thì Thiên hộ Cẩm Y vệ mà hắn nhớ thương nhiều ngày đã đột nhiên xuất hiện, đứng nay trước cổng viện Hàn Lâm, ngăn bước Đặng Chương, miệng nói phụng mệnh Chỉ huy sứ Cẩm Y vệ, mời Dương Toản tới phủ ti Bắc trấn trước.

 

“Cẩm Y vệ xử lý công vụ, Đặng Tự thừa có thể tạo điều kiện một chút hay không?”

 

Đặng Chương càng thêm cau có, song Cố Thiên hộ nửa bước cũng không nhường.

 

Quan viên Cẩm Y vệ và Đại lý tự giương cung bạt kiếm, Thứ cát sĩ trong viện Hàn Lâm cũng không thèm cãi nhau nữa, đồng thời ló mặt ra xem náo nhiệt.

 

Dương Toản nhìn trái nhìn phải một hồi, đột nhiên nảy sinh một suy nghĩ cực kỳ quỷ dị: đây là ông chú thu tiền nước và em trai giao hàng đồng thời tìm tới cửa à? Kế tiếp, có phải sẽ có người mời hắn trèo lên mái nhà nhảy múa hay không?

 

Lắc đầu, đây là cái suy nghĩ linh tinh lộn xộn gì chứ.

 

Thế nhưng, đơn kiện từ huyện Trác Lộc?

 

Trầm ngâm một chốc, cuối cùng nội tâm Dương Toản có hơi trầm xuống.

 

2 comments on “Đế sư – Chương 29

  1. “Cẩm Y vệ xử lý công vụ, Đặng Tự thừa có thể tạp điều kiện một chút hay không?”

    tạp => tạo

     

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Xin hãy nhập captcha *